Ngày đăng: 30/09/2024

- 159 lượt xem

- 5 phút đọc

Mạc Đĩnh Chi

Mạc Đĩnh Chi (1272 – 1346) là người xã Lũng Động, huyện Chí Linh, nay là thôn Lũng Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo, hai mẹ con phải vào rừng hái củi kiếm sống hàng ngày. Mẹ ông hy sinh tất cả để nuôi con, cho con đi học. Trong những năm tháng nhọc nhằn, tủi nhục, mẹ luôn chịu đựng với niềm tin rằng con mình sẽ đỗ đạt để giúp ích cho đời, thoát khỏi cảnh nghèo. Niềm tin ấy đã giúp mẹ vượt qua mọi gian khổ. Hiểu được lòng mẹ, Mạc Đĩnh Chi càng ra sức học tập. Vốn thông minh và phải sống trong cảnh mồ côi nghèo khổ, bị người đời khinh rẻ, nên Mạc Đĩnh Chi sớm nhận ra rằng học tập là con đường duy nhất để thoát khỏi cảnh nghèo và thể hiện phẩm chất thanh cao. Vì vậy, ông luôn chăm chỉ đọc sách, dù là lúc gánh củi đi bán. Không có sách, ông mượn thầy bạn. Không có tiền mua nến, ông đốt củi, lá rừng để học. Nhờ nghị lực phi thường và trí thông minh, chẳng bao lâu Mạc Đĩnh Chi đã nổi tiếng thần đồng nho học xứ Hải Đông.


Khoa thi Giáp Thìn (1304), thi hội, Mạc Đĩnh Chi đỗ Hội nguyên, thi Đình, ông đỗ Trạng Nguyên. Khi ra mắt vua Trần Nhân Tông, vua thấy ông tướng mạo xấu xí, không muốn cho đỗ đầu. Biết ý, ông làm bài “Ngọc tỉnh liên phú” bằng chữ Hán, đề cao phẩm chất và phong thái cao quý của một người khác thường. Bài phú ca ngợi một bông sen sinh ra trong giếng ngọc ở núi Hoa Sơn do một vị đạo sĩ kỳ dị hái mang xuống trần. Vua Trần Anh Tông xem xong khen là thiên tài và cho đậu Trạng nguyên, ban cờ hiển vinh quy bái tổ.

Sau khi trở về kinh đô, nhà vua cho vời Trạng vào hỏi việc chính trị. Trạng trả lời đúng, vua rất hài lòng, ban chức Hàn lâm học sĩ, sau thăng dần đến chức Thượng thư, rồi Đại Liêu ban Tả Bộc Xạ (tương đương Tể tướng).


Năm Đại Khánh triều vua Trần Minh Tông (1314 – 1329), vua nhà Nguyên sai sứ sang phong vương cho nhà vua, Mạc Đĩnh Chi được cử làm Chánh sứ sang nhà Nguyên đáp lễ. Trong quá trình đi sứ, ông biểu hiện xuất sắc tài năng ngoại giao và trí tuệ vĩ đại, khiến vua tôi nhà Nguyên kính phục.


Trên đường đi sứ, ngay biên giới hai nước, ông chứng tỏ tài ứng đối. Khi đoàn sứ giả tới ải Pha Lũy (Mục Nam Quan), cửa ải đóng chặt, có vế đối dán sẵn:


– Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.


Nghĩa: Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua cửa quan.


Vế đối có 4 chữ "quan" và 3 chữ "quá". Mạc Đĩnh Chi đối lại:


– Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.


Nghĩa: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước.


Vế đối có 4 chữ "đối" và 2 chữ "tiên". Viên quan nhà Nguyên chịu tài ứng biến của Mạc Đĩnh Chi, mở cửa ải đón đoàn sứ giả.


Lần gặp đầu tiên, vua quan nhà Nguyên ra vế đối ý kiêu căng:


Nhật hỏa, vân yên, bạch đản thiêu tàn thỏ ngọc.


Nghĩa: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vầng trăng.


Vế đối ám chỉ đối phương yếu và nhát như thỏ. Mạc Đĩnh Chi đối lại:


Nguyệt cung, tinh đạn hoàng hôn xạ lạc kim ô.


Nghĩa: Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời.


Vế đối chỉnh và tài tình, nêu cao ý chí và sức mạnh của Đại Việt. Vua Nguyên phục tài Mạc Đĩnh Chi, khen là danh bất hư truyền, ban rượu ngon và nhiều vàng bạc thưởng ông.


Đoàn sứ giả Đại Việt chuẩn bị về nước, công chúa nhà Nguyên qua đời. Vua Nguyên mời Mạc Đĩnh Chi đọc điếu văn. Tang lễ linh đình, bài điếu văn chỉ có chữ “Nhất” rất to. Mạc Đĩnh Chi ứng biến đọc bài điếu:


Thanh thiên nhất đóa vân Hồng lô nhất điểm tuyết Thượng uyển nhất chỉ hoa Quảng Hàn nhất phiến nguyệt Y! vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết.


Nghĩa:


Trời xanh có một đám mây Trong bầu vũ trụ có một điểm tuyết Trong vườn thượng uyển có một cành hoa Cung Quảng Hàn có một vầng trăng Than ôi! mây đã tan, tuyết đã tan, hoa đã tàn Vầng trăng đã khuyết!


Sự xúc động nghẹn ngào của cung phi mỹ nữ và sự khâm phục của mọi người trước tài trí của Mạc Đĩnh Chi đã tạo nên một kỳ tích có một không hai trong lịch sử văn chương chữ nghĩa thời đại ông.


Mạc Đĩnh Chi làm quan trải qua 3 triều vua: Trần Anh Tông (1293 – 1314), Trần Minh Tông (1314 – 1329), Trần Hiếu Tông (1329 – 1341) đến chức Đại Liêu ban Tả bộc xạ (Tể tướng).


Khi làm quan, ông nổi tiếng trung thực và thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước. Khi về hưu, ông sống thanh bạch, giản dị như dân làng, uống nước vối, trò chuyện thân mật với dân quê.


Bài viết được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau và đã qua chỉnh sửa chính tả, biên tập lại để đảm bảo nội dung rõ ràng, dễ hiểu hơn.


Đây là truyện dân gian Việt Nam, nội dung đã được biên tập lại để phù hợp với người đọc.

Mạc Đĩnh Chi

Lịch hôm nay

Th 2
Th 3
Th 4
Th 5
Th 6
Th 7
CN

Xem gần đây

Mọi người thấy nội dung này thế nào?

HayBình thườngTệ

Truyện cùng chủ đề

Truyện cổ tích Bợm lại gặp bợm

Bợm lại gặp bợm

Ngày ấy, chợ Xuân là một nơi đô hội lớn của trấn Hải Dương. Vào ngày phiên, khách buôn bán, người qua lại đông nghìn nghịt. Gần chợ có một tay đại bợm sống về nghề ăn trộm đã hơn mười năm. Hắn rất tài, mưu mẹo trăm khoanh; khi đã có ý định lấy của ai thì dầu giữ gìn thế nào hắn cũng cuỗm được.

8 tháng trước

211 lượt xem

Truyện cổ tích Nàng Xuân Hương

Nàng Xuân Hương

Ngày xưa ở tỉnh Bắc có nàng con gái trong trắng như hoa thủy tiên nên có tên là Xuân Hương. Cha nàng là một ông đồ nhà nghèo, đã mất từ lâu.

8 tháng trước

165 lượt xem

Truyện cổ tích Chơi Chọi Gà

Chơi Chọi Gà

Tên cầm đầu thị thần và bọn hoạn quan trong phủ chúa rất ghét Quỳnh. Chúng bèn bàn nhau tìm cách hại Quỳnh.

8 tháng trước

193 lượt xem